Thứ Tư, 30 tháng 3, 2011

RẮC-KI, CHÚC NGỦ NGON!

Tiểu thuyết

Phần 1 - HIỆN TẠI


3.
       Trong khi ngôi biệt thự đang xây dở dang, bọn thợ hồ còn đang đổ bê tông cho tầng thứ hai, cũng là tầng cuối cùng, thì ở bên kia đường, cách xa một quãng đúng một-trăm-bảy-mươi-chín mét, tại quán cơm bình dân Tư Chín Lé, nơi bọn thợ hồ vẫn dùng bữa, xuất hiện một người đàn ông. Ông ta, người đàn ông lưng thẳng, vai gù này nếu gọi là "ông lão" e hơi quá, bởi khó xếp ông ta vào hàng "lão' được, tuy khuôn mặt và mái tóc đã "lên lão" từ lâu. Vì sao thế thì khó nói, chung quy là ông ta vẫn còn tính con nít, trẻ ranh, ham nói và ham chơi.
       Tầm chín, mười giờ sáng, lúc bọn thợ hồ còn đang mải mê làm việc, quán Tư Chín Lé vắng ngắt, người đàn ông ấy bước vào. Chủ quán là một người đàn bà bốn-mươi-chín tuổi, không chồng (có người bảo rằng chưa, hãy còn "zin"), mắt hơi hơi lác, bước ra. Bà chủ quán ngần ngừ, chưa biết gọi người đàn ông kia bằng ngôi vị như thế nào cho xứng, thì ông ta đã chỉ tay vào ngôi biệt thự đang xây dở mà phán:
       -Hỏng! Ngôi nhà kia hỏng rồi "cô em" ạ!
       Nhân thế, bà Tư Chín Lé mới lên tiếng:
       -Dạ thưa... ông bác dùng chi?
       Ông bác, vẫn không quay đầu lại:
       -Gì cũng được. Nhưng cô em có thấy cái biệt thự kia xây như thế là hỏng, là phá cách không?
       Cô em vẫn đứng ngây ra, không trả lời ông bác:
       -Gì cũng được là thế nảo hả ông bác? Hay là em làm cho ông bác một ly cà phê đá?
       -Okey! Cà phê đá, nhiều đường, nhiều đá, nhiều cà phê...
       Bà chủ quán mỉm cười một mình rồi xoay lưng, cúi khom mình chui vào cái phòng nhỏ, kín như bưng và cũng tối như bưng của mình, lần tìm cái chai bằng nhựa trong, nhưng đã ngả đùng đục, đựng một thứ nước đen kịt, trút ra một ít vào cái ly làm bằng thuỷ tinh tái sinh, có màu vàng cũng đục. Đó là thứ nước cốt cà phê, được pha từ tối hôm qua, bây giờ khuấy đường, bỏ đá vào là thành ly cà phê đá. Đặt ly cà phê trước mặt ông bác, bà chủ quán Tư Chín Lé cười cầu thân:
       -Họ có tiền, có nhiều tiền, mua đất, xây nhà lầu thấy mà ham. Cái biệt thự bự con "dzầy" mà ông bác biểu hỏng là hỏng làm sao?
       Bấy giờ, ông bác mới ngoảnh khuôn mặt khá xương xẩu, cái miệng nhỏ ti, với hàng ria mép nhân tạo lại nhìn cô em:
       -Cô ở đây mà không để ý quan sát. Cô có biết vì sao tôi lại nói rằng cái nhà kia hỏng không?
       -Dạ, thưa ông bác, em đàn bà, con gái, mắt lại bị lé kim, làm sao biết được.
       Ông bác uống cà phê bằng một hơi dài, lấy ống tay áo quệt những giọt cà phê đọng trên mép, đặt ly cà phê xuống mặt bàn nhờn mỡ, nghiêm giọng:
       -Đấy là một ngôi nhà không có cây nóc! Hỏng là thế đấy.
       Bà chủ quán Tư Chín Lé bỗng nhiên phá ra cười, hai mắt nhắm tít lại, không còn lác nữa:
       -Trời đất, quỷ thần, thiên địa ơi! Nhà biệt thự vi-la hiện đại kiểu Mỹ của người ta mà ông bác bảo có cây nóc thì có mà khùng!
       Ông bác im lặng không thèm chấp câu nói và giọng cười rất khó nghe của cô em, vẫn cứ đều đều:
       -Nhà phải có nóc. Thiên hạ đang loạn! Đại loạn...
       Bà chủ quán bỗng nhận ra trước mặt mình không phải là người bình thường. Với vốn hiểu biết của một bà chủ hàng cơm bụi, bà không thể phân tách rạch ròi được, mà bà chỉ biết ông không giống ai, thế thôi. Không giống những người vẫn thường ghé quán của bà.
       -Đại loạn hay an bình thì em đây cũng chả mất đồng xu teng nào. Cứ có nhiều biệt thự via-la được xây lên, có nhiều thợ hồ, thợ mộc đến quán em là em khoái rồi...
       Bỗng nhiên ông bác quay phắt lại, giọng hăm he như đã quen nhau từ lâu:
       -Cô thì biết gì? Nhà không có cây nó như nước không có tổng thống! Mà cây nóc cũng phải đặt đúng kiểu như tổng thống chọn đúng người, phải ngồi đúng hướng, hiểu không?
       Thấy có vẻ bất lợi, bà chủ Tư Chín Lé cười cầu hoà:
       -Em hiểu rồi, ông bác ơi. Nhà không có cây nóc như nước không có tổng thống. Được chưa nào?
       -Được là được thế nào? Này, cô lại đây tôi nói nhỏ cho nghe.
       Bà chủ quán (vốn chưa có người đàn ông nào nói nhỏ vào tai), trong bụng đầy hồi hộp, đến sát bên ông bác. Còn ông bác nhìn quanh như muốn đề phòng bọn nghe lén, rồi thào thào:
       -Cô có biết ông chủ ngôi nhà kia là ai không?
       Bà chủ quán vừa gật vừa lắc, ý bà muốn nói là bà chỉ hiểu "chút chút" thôi. Ông bác tiếp:
       -Tốt rồi! Cô ghi nhớ lời tôi nhé. Những người trong ngôi nhà này rồi sẽ bị điên...
       Bà chủ quán giật mình, cứ y như vừa bị ông bác nhéo cho một cái vào đùi non, giãy nảy:
       -Kỳ vậy? Thấy vợ chồng cô chú ấy đàng hoàng, sang trong, đúng là trí thức, giàu có. Làm sao mà điên được?
       -Vậy mới là có chuyện! Có chuyện để tôi nói cho cô em nghe, đừng học lại cho người khác. Cứ nghe tôi đi, cô em. Nhưng bây giờ thì chưa điên đâu. Chờ coi...
       Ông bác lại đưa cái ly lên miệng, lúc này nó đã nhạt vì đá tan ra thành nước lã, nhưng ông vẫn khen:
       -Cà phê của cô ngon lắm. Cô lại khéo tay pha nữa. Giỏi thiệt à nghen...
       Bà chủ quán Tư Chín Lé cười khinh khích, nhìn kỹ bộ ria mép nhân tạo của ông bác. Nó đen nhánh, nhỏ tí teo như lông mày đàn bà nhưng lại chẳng có sợi lông nào. Thôi đúng, ông ta đã vô tiệm mỹ phẩm "xăm" ria mép rồi. Quả thật, bà chỉ từng nhìn lông mày phụ nữ kẻ chì hoặc xăm mực đen, chứ chưa thấy ai đi xăm ria mép bao giờ. Đúng là không giống ai thiệt!  
Có thể mọi người không biết "ông bác" đó là ai, nhưng tôi thì tôi biết.
Đó chính là Đạo Sĩ Mùa Thu. Ông ta là một nhân vật cực kỳ bí hiểm, nhưng cũng hoàn toàn ngờ nghệch, dại dột, như bất kỳ một anh chàng hám danh quá thời nào mà chúng ta từng thấy.
Đạo Sĩ Mùa Thu sẽ cùng chúng ta đi cho đến cuối câu chuyện này.
(còn nữa)
xem tiếp đoạn 4

RẮC-KI, CHÚC NGỦ NGON!


Tiểu thuyết

Phần 1 - HIỆN TẠI

4.
       Đã đến giờ dùng bữa của bọn thợ hồ, chúng ào ào tiến vào quán, đứng ngồi, xớ rớ, khiến bà chủ cuống lên. Có một cái đầu nhấp nhô trong bếp, mà chúng ta đã từng nhắc đến. Đó là thằng bé mười ba tuổi, nhặt rác.
       -Rác! Bà chủ Tư Chín Lé hét lên. Mày để đó ra đây chêm hộ tao cái chân bàn...
       Thằng Rác lao ra như một con mèo hoang, cúi thụp xuống kê chân bàn. Bất ngờ, nó hét lên một tiếng thất thanh đầy kinh hãi. Tiềng thét ấy cảm giác như nó bị đâm một nhát vào đâu đó trong cơ thể bé bỏng, lẵng nhẵng toàn da và xương, máu đen phọt ra tung tóe. Chỉ có cái đầu, cái đầu bù xù và cứng như gỗ đá của nó đội thẳng, hất tung mặt bàn lên một khoảng vài gang. Canh cơm, cà phê, trà đá... bay tung tóe. Người thợ hồ dang chủ tọa cái bàn sứt sẹo đó, ngồi ngây ra như mặt phỗng, thản nhiên chịu một trận mưa cơm canh, mà không hiểu vì sao? Thằng Rác, sau cú hét nó vẫn còn sống, và hoàn hồn, đờ người vì sợ, chìa tay xuống gầm bàn, vẻ như thanh minh cái chuyện nó dám đội hất cả cái bàn lên trời, vừa như ra hiệu có cái gì ghê gớm lắm ở dưới đó.
    Bây giờ thì rõ, bà Tư Chín cúi xuống nhìn thấy một bàn chân để dưới gầm bàn có những ngón nham nhở, sứt sẹo. Có một ngón bị xẻ làm tư, như một cọng rau muống chẻ, máu đen rỉ ra li ti. Bà chủ quán rùng mình lắc đầu, bịt chặt lấy miệng, kinh hãi. Thằng Rác đẻ rơi trong rác, ăn ngủ với rác, rồi đang trưởng thành từ rác, chịu đủ mùi ca ngâm của ruồi, chuột, gián... vậy mà còn phải chết cứng người trước ngón chân hoa muống, thử hỏi một cô gái lành hiền, có phần nhàn nhã như Tư Chín, chịu gì nổi!
       Bà Tư Chín đành phải rộng lượng với thằng Rác, sắp lại một bàn cơm canh, trà đá cho người thợ hồ có những ngón chân bị vôi vữa ăn cùn.
       Ông anh già, Đạo Sĩ của chúng ta vẫn ngồi yên nhìn cảnh ấy. Chỉ tinh ý lắm mới nhận thấy hàng ria nhân tạo, đúng ra là cả một bộ phân môi trên mỏng mảnh của ông hơi động đậy.

RẮC-KI, CHÚC NGỦ NGON!

Tiểu thuyết
Phần 1 - HIỆN TẠI  
5.
Việc thi công ngôi biệt thự Hoa Chó Đẻ kéo dài quá lâu khiến thần dân trong khu vực phát bực mình. Lúc đầu họ cũng thông cảm, vì rằng ai cũng thế thôi, ai cũng có lúc phải làm nhà dựng cửa. Những đống vật liệu xây dựng to lù lù chắn các lối đi trên con đường tuy không hẹp lắm. Sắt thép ngổn ngang, tạo nên khung cảnh một công trường thi công vĩ đại, hay như một trận oanh tạc khu trục cơ của quân phát xit. Đêm đêm tiếng xe tải chở cát, chở gạch chạy ầm ầm, tiếng va chạm kim khí đinh tai nhức óc. Lòng người bất an.
Chưa kể, đội quân xay dựng gồm toàn những người tha hương, gầy gò và bất cần đời. Kéo theo họ là những dịch vụ khá phức tạp, khiến không chỉ người dân lo ngại, mà nhà cầm quyền cũng bắt đầu tham dự.
Nhưng tất cả đều vận hành theo một quy hoạch riêng, một nguyên tắc riêng. Quy luật của đồng tiền và nguyên tắc của kẻ mạnh. Công trình dự kiến là chín tháng, nhưng cho đến thời điểm này đã sang tháng thứ mười. Và nó vẫn còn hứa hẹn kéo dài thêm nữa. Bởi vì, người ta thấy một cô gái bán vé số đầu tiên của Khu phố, chỉ chuyên cung cấp vận may cho dân phu hồ, bằng các loại vé: chiều xổ, tối dò cũng có mà vé xổ liền cũng có... từ một thanh nữ hồn nhiên, nay vẫn hồn nhiên, nhưng đã mang một cái bụng khác nặng nề. Người Cai đội xây dựng là ông Năm Thợ Hồ, đã phải đe nẹt đám quân tướng của mình:
- Thằng nào? Liệu mà ăn ở cho phải đức, kẻo xà gồ, dầm thép, bê tông.... nó có mắt.
Một tên khá bảnh trai, lẻo mồm cúi mặt, rồi liếc ngang sang bên kia lán. Thằng bạn nó, thằng bạn thân lắm, biết chuyện lắm, nhìn ông Năm, hào hứng:
- Chắc là đến hôm hoàn công, "ra thợ" xin ông chủ nhà một mâm làm đầy tháng cho cháu ạ !
Cả bọn cười ồ. Hồi này chúng đã bớt hội thảo về cái tên của công trình Hoa Chó Đẻ.
Tuy nhiên người được hưởng lợi là bà Tư Chín, chủ quán cơm bụi, mà dân thợ hồ đã sớm đặt cho một cái tên: Nhà Hàng Khoai Mỡ.
Thật ra, cái tên này do chính tay thợ hồ, chuyên mua vận may đặt ra. Nó nhìn bà Tư Chín, tròn quay, múp míp mà gồ ghề, sau lớp vỏ sù sì là nước da hồng tươi trắng nõn trắng nà. Đã vậy, trong thực đơn từ cuối mùa khô năm ngoái đến sang đầu mùa khô năm nay, món canh khoai mỡ lễnh loãng và nhớt nhát luôn được phục vụ đầy đủ và chu đáo cho giai cấp công nhân "chó đẻ" - đấy là cách gọi của Tư Chín.
Nhà hàng Khoai mỡ có doanh thu ổn định, và tăng vọt vào cuối tuần. Nếu một ngày nào đó công trình hoàn thành, cánh thợ hồ ra đi, chắc cái quán cơm bụi của Tư sẽ dìu hiu, quạnh quẽ và thất thu biết bao nhiêu.
Tư Chín thở dài và chợt nhớ ra trong quán mình đang có một người khách. Đó là ông bác Đạo Sĩ Mùa Thu, nhưng nhất thời Tư chưa biết cái tên dị quái này. Mà nói cho ngay ra, ngoài tác giả thiên truyện này ra, chưa ai biết cái tên đó.
Đêm qua, Đạo Sĩ đi đâu, Tư không biết, vì Tư đã quên, nhưng sáng sớm nay, khi trở dậy mở cửa quán, Tư Chín giật mình khi nhìn thấy "ông bác" ria nhân tạo đang đứng trước cửa quán. Ông xoay lưng lại phía quán, không có vẻ gì là sốt ruốt hay chờ đợi, thản nhiên nhìn cái hình khối mờ mờ, viền ánh sáng đèn từ bên nội thành hắt sang. Ngay cả tiếng mở của rột roạt của bà chủ quán cũng chưa làm Đạo Sĩ quay đầu lại. Ông đang ngẫm nghĩ, hay chiêm ngưỡng ngôi biệt thự dở dang, Tư không biết. Tư hồi hộp, Tư lo sợ... Tư e hèm và chào:
- Good morning! Ông bác!
Đạo Sĩ quay đầu chậm rãi, khẽ gật đầu trong bóng tối:
- Cô em cứ tự nhiên. Cảm phiền cô em cho một ly cà phê đá...
Tư mở rộng cánh cửa, nhẹ nhõm:
- Mời ông bác vô. Để em bật đèn.
Bà Tư Chín Lé bật tất cả các bóng đèn trong quán, mà thật ra nó cũng chỉ có hai cái, một cái bóng huỳnh quang, ám khói, còn cái kia là bóng đèn tròn, vàng quạch. Tư nhanh nhẹn mở tiếp cái cánh cửa phía bên hông, một làn gió nhẹ từ phía cánh đống năn, lác lùa vào. Đạo Sĩ mím môi ngồi chờ đợi. Tuy thế, đôi mắt to và sâu hơi nheo lại, lướt theo từng bước đi dịu dàng, uyển chuyển và có phần hồi hộp của bà chủ quán.
Thế rồi từ đấy, Tư Chín cũng cảm thấy bất an. Bà lẩn thẩn sắp sửa những món ăn để bán. Mà sao sáng nay, cái thằng đồ tể vẫn đem thịt, rau, cá... từ ngoài chợ lâu đến thế nhỉ? Nó mắc dịch hay làm sao thì cũng phải mang đến cho bà chứ.
Tư tìm thằng Rác, nhưng không thấy, chắc chắn không thấy rồi. Nó dậy sớm hơn Tư, nó ra đi sớm hơn cả nhưng tay ăn sương, cờ bạc. Nó đã đến với bãi rác của nó. Dường như ở đó, chỉ ở bãi rác nó mới cảm thấy sinh khí của cuộc sống.
Cho đến khi mọi hoạt động của con người bắt đầu bình thường. Đó là vào ban ngày, ban ngày của con người, còn ban đêm của con ngợm. Đạo Sĩ đã nói với Tư như thế.
Đầu tiên là ông Năm Thợ Hồ, thong dong bước vào quán. Một con người già dặn, từng trải, điêu luyện như Năm Thợ Hồ cũng phải đứng sững lại khi nhìn thấy Đạo Sĩ Mùa Thu. Đạo Sĩ lãnh đạm nhìn ông và khẽ nhếch râu, khiến cho Năm Thợ Hồ biết rằng: lão đang chào ta.
- Chào ông anh. Ônh anh ở đâu mà cà-phe sớm zdậy? (lưu ý chúng ta, Năm Thợ Hồ kêu là cà-phe, chứ không phải cà-phê).
Quả thật, Năm Thợ Hồ bắt đầu bận rộn bởi ý nghĩ: Đêm qua thằng cha này ở đâu? Hơn mười tháng ở đây, mọi ngóc ngách, ngõ hẻm Năm này đều biết. Mà Năm không biết thì đám quân sĩ của Năm cũng biết. Chỉ có một chỗ. Năm Thợ Hồ mỉm cười một mình, nhìn vào cái lô cốt đen sì và tăm tối của Tư Chín, gọi thân mật:
- Tư ơi Tư?!
Có tiếng động lịch kịch, lạo xạo, và tiếng bà chủ quán thanh thanh:
- Dà...! Anh Năm hả?
- Anh Năm đây...
- Đen hả anh Năm?
- Con gì vô đây nữa. Tư biết tính Năm mà.
Các tiếng trao qua đổi lại giữa Tư và Năm, khiến Đạo sĩ chạnh buồn. Nhưng vốn cao ngạo, nỗi chạnh buồn ấy thoáng qua rất mau. Ông nhìn gã thợ hồ đầu bạc, mỉm cười:
- Anh thứ Năm?
- Dạ. Thứ Năm!
- Vậy là thứ Năm!
- Sao không thứ Năm?
Không biết rồi hai gã đàn ông già cả này sẽ còn nói với nhau những gì nữa, nếu không có bước chân nặng và dè dặt của bà Tư Chín, với một ly cà phê nóng, đen ngòm trong tay.
- Của anh đây! Tư Chín đặt ly cà phê xuống trước mặt Năm Thợ Hồ, và không quên liếc sang bàn bên kia, nơi Đạo Sĩ Mùa Thu đang trầm ngâm. Bỗng bà chủ quán reo lên:
- Ý quên! Chết cha... Ông bác uống trà nóng hay trà đá?
- Gì cũng được. Cà phê của cô em ngon lắm, khéo pha lắm.
Chờ cho Tư Cín vào trong bếp, Đạo Sĩ nói với Năm Thợ Hồ:
- Thứ Năm là con số của thất bại. Tôi nhìn anh, từ mái tóc đến dáng ngồi, rồi lại thêm cái thứ của anh nữa, tôi biết anh là người vất vả, ít thành công...
Bị bất ngờ, nhưng Năm Thợ Hồ kịp trấn tĩnh:
- Ông anh nói gì tôi không hiểu?
- Nhiều năm tôi là người nghiên cứu thuyết "Thế nhân trụ thế", tôi có thể phán chắc co anh mấy câu. Anh ít thành công, nhưng lần này, anh thành công lớn. Nhất là khi anh trúng thầu cái biệt thul Hoa Chó đẻ kia.
Năm Thợ Hồ nhột dạ. Chẳng lẽ cái thằng cha môi mỏng, ria mực tàu kia lại là thánh. Năm Thợ Hồ cười cười:
- Đổi mồ hôi lấy miếng ăn thôi ông anh ơi.
Năm nói vậy, là nói với cái nghề xây dựng khốn khổ của mình. Nhưng sau mười tháng ở cái biệt thự này, Năm đã kiếm được rất khá. Bởi vì ông chủ của nó hào hoa, phóng khoáng và ngu dốt. Tận cùng ngu dốt. Vì ông già của hắn, cái ông lão "cực phẩm nhân thần" giàu có đã đẻ ra hắn.
- Nhưng mồ hôi của anh đặc biệt lắm, có giá lắm. Anh cứ nghĩ kỹ lời tôi.
Năm bực mình, dôc cạn ly cà phê, mà đáng lẽ ngày khác Năm nhâm nhi, Năm ngắm nhìn cái mông, cái eo của Tư chủ quán cho đến khi có vài thằng phu hồ đến phá đám, Năm mới đứng dậy. Nhưng hôm nay, Năm hét to:
- Tư ơi, Tiền!
Tư Chín đon đả chạy ra: 
- Sao anh Năm bữa nay giàu quá ha?
Chẳng là, mọi ngày Năm Thợ Hồ thường được đàn em bao cà phê sáng, chưa bao giờ Tư Chín thấy ông ta phải móc bóp hay túi ngực áo.
- Tiện đây trả luôn. Tôi đi sơm có chút việc. Chờ cho Tư Chín cúi xuống nhậnt iền, Năm Thợ hồ nói nhỏ nhưng gằn từng tiếng vào tai Tư Chín. Bà lôi ở đâu ra cái thằng cha mắc dịch kia. Mới sáng sớm ra đã nói tầm bậy, tầm bạ.
Rồi Năm Thợ Hồ vùng vằng đi nhanh ra cửa. Tư Chín nhìn ông bác Đạo Sĩ, chợt mỉm cười, rồi thấy mặt mình như nóng lên, dù mới sáng sớm.
- Nhiều chuyện! Đúng là đồ dê già!

RẮC-KI, CHÚC NGỦ NGON!

Tiểu thuyết
Phần 1: hiện tại
6.
Lần đầu tiên trong đời, Tư Chín Lé nhìn thấy người đàn ông tắm. Đôi mắt hốt hoảng đến đờ đẫn của Tư nhìn như dán vào bộ nhức lép kẹp đầy xương xẩu của Đạo Sĩ. Không chỉ đôi mắt mà cả khuôn mặt và toàn thân người Tư ngây ra, chỉ có cánh tay là vẫn đưa thẳng về phía Đạo Sĩ, vì một bàn tay có một cái khăn tắm hơi sờn, ngả màu ngà voi, nhưng nhìn rất tinh khiết. Đạo sĩ nhìn thẳng vào đôi mắt Tư Chín, nhưng không bày tỏ một chút cảm xúc nào, khi đôi tay ông không ngừng kỳ cọ.
Thời gia trôi đi trong đôi mắt không hề chớp của Tư Chín, cho đến khi như nhận ra điều gì đó khác thường, Tư mới giật mình quay mặt đi, hét lên một tiếng thanh, nhỏ, nhưng dịu dàng:
- Nè!
Đạo Sĩ Mùa Thu ngừng tay kỳ cọ trên ngực, trên bụng, hai cánh ta và bộ đôi bắp đùi khẳng khiu, cũ kỹ... đưa tay đón lấy cái khăn tắm màu ngà voi, thì Tư Chín mới ù té chạy ra khỏi buồng tắm. Được vài bước, mặt Tư nóng bừng lên, cúi mặt xuống cắn vạt áo mình và lí nhí thật sâu trong cổ họng:
- Đồ quỷ! Đồ quỷ...
Tự dung trong tận đáy lòng Tư Chín cùng lúc xuất hiện hai cảm xúc chồng chất. Nếu có một biến động gì nho nhỏ, rất nhỏ thôi, lâph tức Tư sẽ thay đổi quyết định.
Thằng Rác đã về, nó nhìn bà chủ quán bằng một cái nhìn của con chó con, quyến luyến. Nó đặt cái bao tải khoác lếch thếch trên đường xa xuống góc quán, lễ phép:
- Thưa Tư, con mới về.
Tư Chín lập tức bị phân tán ý nghĩ. Bà mỉm cười độ lượng, một nụ cười hiếm thấy đối với thằng Rác:
- Mầy về rồi hả? Sớm zdậy? Bữa nay có gì nào?
Rác mỉm cười, nhưng cái miệng khá đẹp của nó (lạy Trời cho nó cái miệng, rất quan trọng) lại há hoác ra:
- Con bán được tám chục ngàn rồi đó Tư. Ba cái trong này con đem về làm đồ chơi...
Chúng ta nên rộng lượng mà thương lấy một đứa trẻ mười ba tuổi, sinh ra và lớn dần lên trong đống rác, tồn tại và phát triển trong cặn bã nhân loại, nhưng vẫn không mất đi bản tính của một trẻ thơ: ham đồ chơi - ham mô phỏng cuộc đời! Rác dốc ra xủng xoẻng những đồ chơi: xe tăng, máy bay, súng ngắn, súng dài, dao găm, mã tấu, búp bê trai, búp bê gái... tất cả đều sạch sẽ nhưng thương tổn. Đồ chơi của những đứa trẻ cùng tuổi với nó vứt đi. Cũ người mới ta. Rồi đây nó sẽ bày trận chiến tranh ác liệt, rồi đây nó sẽ mở cửa hàng, bán buôn lời lãi trong thương trường tuổi thơ, rồi đây những câu chuyện tình yêu sẽ diễn ra, hy vọng và đau khổ... Nhưng bây giờ nó phải nhanh chóng cất giấu ngay đi, vì... Đạo Sĩ Mùa Thu xuất hiện.
Đạo sĩ trong bộ pijama hàng chợ kẻ sọc màu xanh nhạt, trông ông giống một bênh nhân hơn một chính khách ở nhà mình. Vì thế thằng Rác kinh sợ, co rúm người lại. Đôi mắt thằng bé long lên những tia sáng tự vệ yếu ớt. Tư Chín cũng đã nhận ra hoàn cảnh ấy , nên an ủi thằng bé:
- Mầy sợ ổng hả con?
Thằng Rác gật đầu lia lịa, lùi dần cùng với những thứ bảo vật đồ chơi xủng xỏeng của nó. Đạo Sĩ Mùa Thu mỉm cười, bằng cách mím chặt đôi môi mỏng có viền hàng ria vẽ mực, đen nhánh:
- Từ nay, chúng ta là người một nhà.
- Đồ quỷ! Tư Chín lại đỏ bừng mặt. Ai nói một nhà hồi nào?
Tư Chín bỗng cảm thấy ân hận khi thấy Đạo Sĩ không chịu rời khỏi cái bàn nhừn mỡ và cái ly cà phê đá đã trong veo, đã nói một câu đầy chất ỡm ờ: "Ông anh ở lại đây dùng cơm hàng em chớ?".
Hai nỗi ân hận đến cùng lúc. Nỗi ân hận vì Tư đã nhận thấy, người đàn ông kỳ quặc này, không phải là ông bác, không già đến nỗi thành ông bác, nhưng cũng không trẻ nữa, nên Tư đã gọi ông ta là "ông anh". Ông anh không khách sáo và nhận lời ở lại dùng cơm trưa trong "tệ quán" của Tư.
Buổi chiều, khi đám thợ hồ ra công trường, kể cả "con dê già" Năm Thợ Hồ cũng phóng cái xe Vespa xịt khói đi đâu mất, ông anh đã gọi Tư Chín đến kêu ngồi trước mặt:
- Cô em ngồi đây. Tôi có cái này.
Tư Chín Lé hồi hộp nhìn bàn tay xương xẩu của ông khách lôi từ trongcái túi càn khôn của mình ra một gói giấy báo đặt vào tay Tư Chín, giọng lạnh lùng:
- Của cô đấy.
Tư Chín không tin vào mắt mình, cô - ta hãy gọi Tư như vậy, từ đoạn này trở đi - run rẩy mở cái gói ra và ngẩn lên nhìn ông anh thảng thốt:
- Tiền?
Ông anh gật đầu, mỉm cười.
- Của anh à?
- Tất nhiên là của tôi...
- Làm sao anh có nhiều tiền thế?
- Không nên tò mò. Có đủ không?
Tư Chín không hiểu ông anh nói gì, hỏi lại một cách thận trọng:
- Đủ gì ạ?
- Tôi muốn cưới cô.
- Cưới em?
- Không. Không cưới xin gì cả. Tôi muốn cô là vợ tôi.
Trời đất nghiêng ngả. Mái quán xoay tròn như trong cơn bão lòng của người con gái gần năm mươi tuổi. Trước mặt Tư, ông anh hào hoa và bí hiểm đã ngỏ lời, mà không hề dè trước đón sau. Như tất cả người con gái đồng trinh nào, phản ứng tự nhiên của Tư là lắc đầu:
- Nhưng... Nhưng anh đã biết gì về em đâu...
- Biết. Tôi biết em.
- Còn em, đến tên anh em cũng chưa biết.
- Gọi anh là Đạo Sĩ. Khi cần trang trọng thì gọi đầy đủ là: Đạo Sĩ Mùa Thu!
- Dà.... Đạo sĩ... Mùa Thu!
Trong tiểu thuyết, người ta, nhất là các nhà văn thiếu kinh nghiệm thường rất dài dòng miêu tả những mối tình đầy than van, nước mắt và niềm đau khổ. Khi tôi kể vắn tất về cuộc tỏ tình của Đạo Sĩ Mùa Thu với cô Tư Chín, thì Phương Nham phản đối:
- Anh không có quyền bôi bác một người phụ nữ...
Tôi gạt tay Phương Nham ra khỏi bàn phím, nổi cáu:
- Sao chị cứ hay can thiệp vào công việc của tôi thế? Chẳng lẽ tôi phải để cho cô Tư khóc lóc, nức nở, hay chàng Đạo Sĩ của chúng ta phải quỳ xuống cầu hôn như một tên Romeo dở hơi hay sao?
Phương Nhan vùng vằng ngồi vắt chân chữ ngũ, đôi mắt lạnh lùng:
- Tình yêu là thiêng liêng.
- Thì thiêng liêng.
- Anh có định kể cái đêm tân hôn của họ không?
- À, cái đó... để xem đã. Nhưng sao lại không nhỉ? Tôi sẽ kể ở đoạn sau.
- Đúng là một giuộc.
Tôi định nói câu gì đó thật đau, thật nặng, để tống cổ chị ta đi, nhưng ngoảnh lại thì Phương Nham đã không còn đó nữa. Tôi thấy nhẹ cả người, nhưng mất hứng kể nữa. Đến đâu rồi? Con mụ phù thủy?
Tiếng Phương Nham từ phòng bên kia vọng sang:
- Bây giờ chúng ta là người một nhà.
Thằng Rác nghe đến hai chữ "chúng ta" và "một nhà", nó không hiểu. Nó có biết thế nào là chúng ta, thế nào là một nhà, nhưng cái đó của người khác, không bao giờ là của nó. Nố bần thần đúng im. Tư Chín lên tiếng:
- Rác à, từ hôm nay mày cứ ở đây, phụ với dì. Và mầy kêu ông anh đây là... Tư Chín đã quên, vì trong lòng đầy hồi hộp. Đạo Sĩ Nhắc lại, dõng dạc:
- Đạo - Sĩ - Mua - Thu!
Rác lí nhí nhắc lại, hai ba lần, bỗng đôi mắt nó sáng lên:
- Thôi vầy đi, chocon kêu bằng Ông Đạo!
- Okey! Đạo Sĩ tiến đến xoa đầu nó. Bàn tay ông vừa lùa vào mái tốc xù mô đen của nó vội giật thót người:
- Dơ quá! Bẩn quá! Ông quay sang Tư Chín. Em hãy đua nó vào nhà tắm. Dầu gội đầu vẫn còn lưa một ít đó!

RẮC-KI, CHÚC NGỦ NGON!

Tiểu thuyết
Phần 1 - HIỆN TẠI
7
Trong khi Đạo Sĩ Mùa Thu dõng dạc đàng hoàng chỉ cho thằng Rác kê tấm ván cop-pha mà bọn thợ hồ thải ra, vứt lăn lóc bên kia đường làm thành cái giường của nó, thì Tư Chín lục cục trong căn buồng tối đen của mình.
Mái tóc buông xoã chùm hai vai, lưa thưa bạc ban ngày đã được Đạo Sĩ cột lại bằng một túm dây thun, túm lên, gọn ghẽ, làm khuôn mặt ông lộ ra dưới ánh đèn. Thăng Rác tuy không còn quá sợ hãi "ông Đạo" của nó nữa, nhưng nó vẫn rất không yên tâm, khi đứng trước mặt ông. Nó hồi hộp, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn lén ông Đạo. Ông thở nhẹ nhàng cũng như giọng nói trìu mến và truyền cảm của một người truyền giáo chuyên nghiệp:
- Cẩn thận! Hết sức cẩn thận, tránh gây ra tai nạn, tránh đổ máu vô ích.
Thằng Rác "dạ" rất nhỏ trong cổ họng, và cẩn thận theo hướng dẫn của Đạo Sĩ, gượng ghẹ tháo từng cái đinh ra, gom lại một vốc, rồi lấy con dao cùn cạo hết lớp vữa xi măng trên mặt ván. Trong khi "hết sức cẩn thận", thế mà bất ngờ một cái đinh ngầm trong thớ ván bất ngờ cày một đường ngang bàn tay của nó. Máu chảy thành rãnh xuống các kẽ tay.
Đạo sĩ thấy thế thì nắm lấy bàn tay của Rác, giọng gầm gừ:
- Quá không cẩn thận, quá chủ quan. Coi chừng nhiễm trùng.
Ông Đạo bắt thằng Rác phải vào dội nước thật kỹ rồi ông xé một điếu thuốc lá cầm sẵn trong tay đợi thằng Rác. Trong lúc đó thằng Rác rửa tay rất qua loa, vì nước càng làm cho vết xước của nó rất xót. Đặt ngang điếu thuuốc lá đã bóc giấy và lòng bàn tay nhỏ bé của Rác, ông Đạo sĩ bắt nó nắm chặt lại. Không cần kỹ lưỡng hay cầu kỳ quá, ông Đạo Sĩ đã kê xong tấm ván, ở góc quán, sát với bức tường làm ván ép đã cũ, có chỗ phồng lên, gõ ngón tay vào kêu bùng bục.
- Nằm thử đi, anh bạn. Ông Đạo Sĩ nói với Rác.
Thằng Rác trải mảnh bao tải xác rắn lên tấm ván chưa được nhẵn lắm, nó lấy bàn tay không bị thương vuốt qua loa rồi leo nên nhún thử. Nó nhìn Đạo Sĩ cười như người có lỗi rồi tụt xuống, lấy cái bao bố của nó ra những thứ cần thiết: một cái mền đen đủi, và cả một cái gối đã xẹp lép, cứng quèo xếp vào đúng vị trí của nó. Nhưng Đạo Sĩ đã sửa lại:
- Quay đầu trở ra, anh bạn.
Thằng Rác còn chưa hiểu thì Đạo Sĩ đã giảng giải:
- Người sống khi ngủ phải quay đầu trở ra cửa, nghe chưa? Người quay ra, ma quay vào.
Tuy chẳng hiểu gì, nhưng nghe nói đến ma, thằng Rác cũng thấy sợ, và nó còn phải nghe lời ông Đạo của nó, nên nó ngoan ngoãn, làm theo như một cái máy nhỏ bé.
Có một điều khó giải thích ở đây. Rác là một thằng bé không biết sợ ma. Nó lăn lóc trong rác, trong nghĩa địa. Nó sống với ma, hay nó chính là ma. Nói cách nào đó, Rác sợ con người. Nó sợ tất cả, nhưng có lẽ từ khi gặp Đạo Sĩ Mùa Thu, nỗi sợ hãi con người tăng lên gấp nhiều lần so với cái ý thức bé xíu của nó. Nỗi sợ trìu mến và kính cẩn với Đạo Sĩ khiến nó nghe lời ông như một tên nô lệ nhỏ bé, một cái bóng lệ thuộc.
Thằng Rác muốn ngủ lắm, nó muốn nằm một mình, trên cái giường, và đặc biệt trong ngôi quán ấm cúng mà ít khi nó có được. Những đêm trước đó, nó chỉ được nằm ở ngoại hè, tuy "tài sản" của nó được ký gửi trong quán nhà Tư.
Nó mong cho ông Đạo đi đâu đó, như những đêm trước, thật xa nó ra. Nhưng ông Đạo vẫn ngồi nhìn nó trầm ngâm, tính toán. Bất ngờ, ông Đạo lên tiếng:
- Này, anh bạn. Từ nay không ai được gọi tên mày là Rác nữa, nghe chưa?
Thằng Rác tiếp tục lúng búng:
- Tại, bị người ta kêu vậy chớ. Con đâu có biết.
- Mày tên gì? Tao hỏi tên họ đầy đủ của mày kia.
Khốn khổ, thằng Rác không hề có tí chút hiểu biết gì về tên và họ, đừng nói chi đến tên thật với chả tên giả. Nó nhìn ông Đạo Sĩ Mùa Thu bằng đôi mắt trong veo, lắc đầu.
Đạo Sĩ hiểu ngay. Ông im bặt. Thằng Rác cũng im. Bất ngờ, Đạo Sĩ nói như quát lên, nghiêm trang:
- Từ bây giờ trở đi, ta đặt tên cho nhà ngươi, bằng một cái tên mới.
- Dạ, ông Đạo kêu con bằng gì cũng được.
- Tên anh từ nay là Rắc. Được chưa?
Tằng Rác súyt thì bật cười, khiếm nhã. Nhưng nó không thể nào nhịn được, cười phì ra. Đạo Sĩ cũng phải nheo nheo theo nó:
- Tên thường gọi là Rắc. Nhưng như thế có vẻ cộc lốc quá. Ta thêm vào một chữ nữa: Rắc-ki! Rắc-ki...
Đến đây thì thằng Rác, mà quên, thằng Rắc-ki phá lên cười khanh khách, cười rung cả tấm ván côp-pha. Nói vừa dụi mắt, vừa nói trong nước mũi:
- Mắc cười quá ông Đạo ơi...
Đến đây thì cả Đạo Sĩ và Rắc-ki cười tung trời, cười hả hê, không còn phân biệt tuổi tác, ngôi thứ. Thằng Rắc-ki cười lăn lộn, còn Đạo Sĩ thì cúi gập người xuống, ôm lấy bụng.
Trận cười giòn tan và tràn đầy hạnh phúc của Rắc-ki chưa kết thúc thì cô Tứ Chín hiện ra. Rắc-ki tuy vẫn còn muốn cười, nhưng nhìn thấy Tư Chín trong bộ đồ bộ màu hồng tươi, đứng chéo nạnh nhìn hai người một cách trìu mến nghiêm túc, thì Rắc-ki nhanhnhảu:
- Dì Tư, từ nay con có tên mới rồi nghe dì.
Tư Chín nhướng cặp chân mày đang bắt đầu thưa dần về phía thằng Rắc-ki:
- Ừa.... mà tên Rác nghe kỳ quá. Đổi là Rau hay Cỏ gì cũng được.
- Rắc-ki! Đạo Sĩ đúng dậy, chìa bàn tay về phía Rắc-ki, trịnh trọng. Chúc ngủ ngon!
Cả đời Rắc-ki chưa được ai chúc ngủ ngon, nên nó ngỡ ngàn chìa tay ra nắm lấy bàn tay mềm và lỏng, hơi ẩm của Đạo Sĩ.
Đạo Sĩ cùng co Tư Chín sánh vai nhau bước vòng qua câycột để vào phòng ngủ của mình, cái phòng tối mịt kín bưng, mà Rắc-ki đã có lần được ngó vào.
Trong khi Rắc-ki và ông Đạo Sĩ dọn dẹp, sắp xếp chỗ ngủ cho nó thì trong căn buồng kỳ dị, cô Tư Chín cũng chuẩn bị cho đêm (gọi là) tân hôn của mình. Cô cuộn tất cả những thứ không cần dùng đến, không muốn tân lang nhìn thấy cho vào một cái bao bố xác rắn, cột chặt lại. Không biết từ đâu, có lẽ từ hồi chiều, cô Tư Chín đã kịp đạp xe đạp đi mua được một chiếc chiếu mới, một cái mùng tuyn xanh lơ và đặc biệt có cả một đôi gối thêu chữ Tàu và những bông hoa hồng to tướng. Tất cả đều ngay ngắn, mịn màng, làm tay chân cô Tư luống cuống, rời rã, tưởng có lúc không làm chủ được. Cô nhứa lên, đặt xuống và có lúc ngồi thừ ra, thả mặc cho trí tưởng tượng chui luồn vào tận nhưng điều bí hiểm, ngóc ngách của... chuyện lạ lùng.
Đèn phụt tắt. Thằng Rắc-ki cũng chui đầu vào cái mềm đen đủi của mình. Nó cảm thấy hạnh phúc và sung sướng kể tù khi nó được sinh ra trên cõi đời này. Nó nhất định sẽ ngủ một giấc thật say mê, thật yên ổn.
Thế nhưng, Rắc-ki lại trằn trọc mãi mà không ngủ được. Có lẽ hạnh phúc đường đột và tràn ngập trong con tim bé bỏng đã đánh thức mọi bản năng của nó, một thằng bé mười ba tuổi. Rắc-ki không biết bằng cách nào mà nó có mặt trên cõi đời này được nhỉ? Nó chỉ biết khi nó lay lay thân hình đã lạnh cứng của bà cụ mà nó kêu bằng bà ngoại. Bà cụ chết. Nó cũng không biết là người ta có thể chết được. Mà giữa chết với sống thì có khác gì nhau? Chỉ đến khi nó thấy người ta, trong đó có cả dân nhặt rác như nó bỏ chạy khjỏi cái ổ rác lưu cưu, nó cũng định chạy theo. Nhưng nó lại quay lại, cố kéo các xác già nua, cô quạnh để cùng chạy với nó, nhưng không được. Người bà ngoại nó cong queo, khô cứng, hai đầu gối khẳng khiu co lên sát mặt, và đôi tay vòng ra bên ngoài như cố ghì lây hơi thở cuối cùng.
Xe ô tô màu xanh xám, đít vuông, có in chữ thập đỏ to tướng chạy đến theo một cú điện thoại của ai đó. Những người đàn ông bịt kín mặt, trong bộ đồ màu xám, chân đi ủng và găng ya màu trắng đã nhảy ra khỏi xe, túm lấy bà ngoại nó quẳng vào thùng xe nghe cái binh!
Từ hôm ấy, thằng Rắc năm tuổi ở một mình giữa ruồi nhặng, chuột, dán và những đồng nghiệp lớn tuổi của nó.
Nhiều năm sau, chưa bao giờ nó dám mơ một căn nhà, những người thân, ân cần và nghiêm khắc với nó. Vậy mà... Ôi, dì Tư, ôi ông Đạo.
Nó nghĩ đến đây thì bên kia tấm ván ép làm tường ngăn có tiếng lào xào. Đêm khuya dần, tiếng xe chạy cũng thưa dần, vì thế Rắc-ki nghe rõ từng tiếng người nói bên kia vách ván.
Tiếng dì Tư:
- Anh làm gì mà im thế. Khiếp lại còn thở nữa...
Tiếng ông Đạo:
- Anh có làm gì đâu? Em cío thấy hạnh phúc khi ở bên anh không?
Im lặng, có tiếng xột xoạt và cựa quậy. Tiếng dì Tư:
- Có sao không anh?
- Sao là sao?
- Là chúng mình chỉ nằm thế này thôi...
- Thế là hạnh phúc lắm rồi.
- Ôi, anh. Anh xích lại đây chút đi. Phía đó có ổ chuột đó. Bữa hổm em bắt được một đám chuột con. Hí hí hí...
Lại im lặng. Rắc-ki muốn ngủ lắm rồi, nhưngnó vẫn phải nghe. Tiếng dì Tư:
- Anh... ối, em bị ngứa, anh gãi cho em đi.
Tiếng lào xào.
- Đó, xích xuống dưới chút. Đó, đó.... Sang phải.... Lên lên....
Ông Đạo không nói gì. Hai người cũng không nói gì, Rắc-ki đoán là họ đã ngủ. Nhưng không, tiếng dì Tư mềm nhão:
- Anh gãi nữa cho em đi. Ừa, mà sao bữa nay em bị ngứa quá. Có sao không anh?
Tiếng ông Đạo:
- Ngứa là phản ứng tất nhiên của cơ thể. Những sợi dây thần kinh có những cái đầu nhỏ tí và nhạy cảm cô cùng. Chúng triển khai ra hầu hết khắc các vùng da và niêm mạc. Ở đó chúng làm nhiệm vụ thường trực báo độngcho cơ thể.
- Em hổng biết đâu. Nhưngcó người ngứa, có người không...
- Cái đó là tùy cơ địa cuỷa từng người. Nhưng ngứa là dấu hiệu cơ thể bị tác động xâm nhập. Ngứa là chuẩn bị báo hiệu của đâu...
- Ối chết. Tiếng dì Tứ chợt lớn bất thường. Cũng có thể như là dì đã ngồi dậy để nói. Ngứa khác, đau khác chớ.
- Ngứa là tiền đề của đau... là em của đau, là bước đầu của đau đớn.
Chợt thằng Rắc-ki thấy tay chân và cả mngr lưng mình thấy râm ran ngứa, Nó cựa mình, quờ tay gãi lưng và nghĩ: sao ngứa lại là tiền đề của đau được? Mà tiền đề là cái gì nhỉ? Hừ, ông Đạo tốt bụng nhưng ông là người sang trọng, biết nhiều chuyện. Nếu ôngcó bộ ria mép bằng râu thiệt thì hay biết bao. Ở đây, in như là ông vẽ bằng lọ nồi, lọ nghẹ lên vây...
Thằng Rắc-ki nghĩ vẩn vơ và ngủ thiếp đi trong thiếng lào xào từ bên kia vách ván.
Không biết bao lâu, Rắc-ki giật mình, thảng thốt. Tuy là một đứa trẻ, nhưng thần kinh nó đã được rèn luyện trong cõi bụi đời, nên nó khác nhạy với những biến động bất thường xungquanh. Lần này, nó bị đánh thức bằng tiến gõ mạnhbồm bộp vào tấm vavsh ván. Nhưng nó không cần phải định thần lâu, cũng nhớ ra mình đang nằm ở đâu, và những tiếng động ấy từ đâu mà có.
Tiếng dì Tư như tắc nghẹn lại:
- Em đau...
- Đau lắm không?
- Đau... đau nhi... ều! Anh có sao không?
- Anh không sao.
- Vậy là lúc đầu hôm ngứa thì bây giờ đau hả anh...Im lặng và từng nhipị tiếng động gì đó không rõ ràng. Rồi ông Đạo Sĩ nói, giọng vẫn lạnh lùng:
- Rất có thể, từ ngứa chuyển thành đau. Thế em có biết từ đau chuyển thành gì không?
- Thành gì cũng được... thành... thành...
- Nói em không được sợ nghe.
- Em hỏng sợ. Có anh rồi.
- Đau ở một nơi nào đó trên cơ thể là tín hiệu của nơi đó bị tấn công và báo hiệu nơi đó có thể bị hủy hoại. Tức là chết.
- Có thiệt vậy không anh?
- Chắc chắn vậy...
- Ứ... nhưng mà em đau hơi hơi thôi.
- Thế thì tốt rồi.
- Nhưng mà có chết đượckhông anh.
- Còn tùy....
- Tuìy ở an hả? Sao em hết đau rồi nè...
- Quá tốt. Ông Đạo Sĩ vẫn giải thích một cách nhát gừng và cầm chừng như vậy. Bỗng dì Tư hét lênmột tiếng, tuy nhỏ nhưng rrong đêmkhuya vẫn nghe thấy được rất rx, như là tiếng hét của người muốn cười tươi...
Thằng Rắc-ki thấy vậy thì sợ hãi. Nó vùi thật sâu cái đầu mới gôi hồi chiều vào trong chăn, nhắm mắt nghiến răng, quyết tâm ngủ cho bằng được.
Và nó ngủ cho tới sang. Lúc bừng mắt dậy, nó vẫn tưởng mình còn đang nằm ngoài vỉa hè "Nhà hàng Khoai Mỡ". Nhưng sao không thấy dì Tư la lối, xua đuổi như mọi ngày?

RẮC-KI, CHÚC NGỦ NGON!

Tiểu thuyết

Phần 1 - HIỆN TẠI


8
Phương Nham lại tiếp tục giở bài bản cũ ra với tôi, tôi rất khó chịu, mặc dù hơn một lần tôi thấy mụ có lý.
Ngay trong "đêm tân hôn" của đôi nhân ngãi cuối mùa vụng dại Tư Chín - Đạo Sĩ Mùa Thu, một sự cố đã xảy ra trong ngôi biệt thự Hoa Chó Đẻ. Sự cố không lớn lắm: một hệ thống giàn dáo bị sập, kéo theo một bức tường phía tây bị nghiêng theo. May mà mọi chuyện xảy ra vào ban đêm, không có người thợ nào đang làm việc, nên không có tai nạn về người. Sáng ra, Năm Thợ Hồ có mặt tại hiện trường hô hoán bọn thợ dọn dẹp nhanh chóng và xoá mọi dấu tích, trước khi người chủ nhà biết chuyện. Ông ta cay cú hết nhìn đống gạch vữa đổ nát lại nhìn sang quán Tư Chín Lé, hay còn gọi là Nhà Hàng Khoai Mỡ:
- Tại sao một thằng cha kỳ quặc, gàn dở, bẩn thỉu từ một xó xỉnh nào mò tới lại mau mắn cuỗm được con mẹ chủ quán. Nó có cái gì hơn ta nhỉ?
Đúng lúc ấy, Phương Nham đến bên tôi, hất hàm:
- Anh giải thích đi!
- Có cái gì phải giải thích nhỉ? Một người đàn ông và một người đàn bà, nhìn thấy nhau, họ cảm mến nhau, yêu thích nhau, họ đưa nhau vào bóng tối là chuyện quá bình thường.
- Tôi không nói chuyện đó.
- Chị muốn gì? Muốn tôi phải viết thế nào?
Tôi rất ghét cái thói đỏng đảnh của đàn bà, nhất là khi y thị không còn trẻ nữa, mà lại cứ muốn làm như ta còn ngây thơ lắm. Họ muốn chúng ta phải làm những việc hết sức thừa thãi, vô bổ, vô ích, vô nghĩa để đôi khi chỉ để làm trò vui tiêu khiển cho họ. Nếu ta không chịu làm theo ý họ, họ lập tức quay sang trách chúng ta như mưa như gió.
- Viết là chuyện của anh, nhưng tôi muốn tất cả những mối tình phải đẹp, phải nhân văn.
- Cút đi! Tôi nổi cáu. Làm gì có mối tình nào đẹp, mối tình nào nhân văn!
Phương Nham cười như người có lỗi:
- Nhưng mà tôi muốn.
Thôi được. Tôi nghĩ bụng. Ý muốn của đàn bà là ý muốn ngông cuồng, có cưỡng lại cũng vô ích.
- Tôi đề nghị chị hãy biến đi để tôi còn làm việc nhé.
Phương Nham nguây nguẩy bỏ đi. Còn tôi... trống rỗng hoàn toàn.
Nhưng, rất may cho tôi, người chủ của ngôi biệt thự xuất hiện. Hay đúng hơn là một trong những người chủ của Hoa Chó Đẻ đã đến đúng lúc, cái lúc mà nhà thầu Năm Thợ Hồ đang cay cú với Đạo Sĩ Mùa Thu.
Ba mươi sáu tuổi, một con, với khuôn mặt đoan trang, tự tin của người không thiếu tiền. Nhà thầu Năm Thợ Hồ, khi được một tay thợ nói thầm vào tai, đã vội vàng chui ra khỏi bức tường đổ đến trước mặt người thiếu phụ trẻ trung, cười cầu tài:
- Cô đến sớm thế? Mới có bảy giờ...
Thiếu phụ mỉm cười nhìn nhà thầu:
- Ông Năm đấy à? Không hiểu sao đêm qua tôi nóng ruột quá, không ngủ được... Có chuyện gì thế ông Năm?
Năm Thợ Hồ làm như mình là một tay vệ sĩ chuyên nghiệp đi theo hộ tống nữ chủ nhân, đưa bàn tay chai cứng thô lậu của mình, đỡ khuỷu tay thiếu phụ chủ nhân:
- Cô đi ra ngoài này ta nói chuyện. Ở đây không an toàn.
Thiếu phụ nhăn nhăn vầng trán xinh đẹp còn in rõ dấu vết mãn nguyện bình minh của mình, rón rén bước những bước cẩn thận trên đôi giày cao gót tránh những viên gạch vỡ, những khúc cây xà bần. Ra đến mặt đường, nàng ngước nhìn ngôi nhà đồ sộ, lắc đầu:
- Tôi không ngờ nó lại đồ sộ đến thế này?
- Cô Trinh này, tôi đã được nghe ông cụ và chú ấy dặn dò là phải làm cho thật kỹ lưỡng, thật cẩn thận. Bởi vậy cho nên...
- Nhưng sao tôi vẫn có cảm giác toà biệt thự này không được chắc chắn. Một ông thầy bói đã nói với tôi: hình như vị trí của nó không được vượng lắm...
Nhà thầu cười chân tình đến gần mang tai:
- Ai dám nói vậy hả cô? Nói thật nhé: nhìn tướng mạo ông cụ nhà mình, rồi phong độ của chú ấy, rồi tư cách với nhan sắc của cô Trinh... rồi... Năm Thợ Hồ còn muốn dẫn ra nhiều thứ nữa, nhưng có lẽ lão tịt, nhất là khi lão nhìn quá gần vào lớp áo mỏng ban mai của cô chủ... lão cà lăm!
Cô Thục Trinh vẫn ngây thơ bỏ ngoài tai những lời tâng bốc của lão nhà thầu. Nàng đi thêm vài bước nữa về phía Nhà hàng Khoai Mỡ, rồi bất ngờ quay lại nhìn thẳng vào mắt Năm Thợ Hồ:
- Ông Năm? Ông cho tôi biết: bao giờ thì xong?
Nhà thầu tránh cái nhìn dịu dàng và gay gắt của người thiếu phụ sang trọng trẻ tuổi, cúi xuống nhìn cái bóng của nàng trước ánh nắng mặt trời mới lên, ngả dài xuống mặt đường, tránh câu trả lời trực tiếp:
- Cô yên tâm. Thợ mộc và thợ sắt đã sẵn sàng. Cả một ê kíp hoạ sĩ cũng đang chờ lịnh tôi...
Thiếu phụ Thục Trinh hơi cau mày:
- Như vậy là còn bao nhiêu phần công việc nữa?
- Cũng không nhiều đâu, thưa cô.
Thật ra, chúng tôi - tôi và Phương Nham - cũng chưa có điều kiện để khảo sát tiền bạc và sự giàu sang của gia đình Thục Trinh, nhưng không thể nào nghi ngờ sự giàu có tột bậc của gia đình này. Ông già cha của chồng Thục Trinh là một nhân vật quan trọng trong xã hội, mà nói như Đạo Sĩ Mùa Thu thì đó chính là một "cực phẩm nhân thần", tức là chỉ sau Đức Vua. Danh vọng và tiền bạc làm ông xa hẳn lớp người bình thường, tầm thường. Ông đã sinh ra người con trai thông tuệ và can trường, để lấy cô Thục Trinh xinh đẹp và sắc sảo. Tất nhiên người ta càng có nhiều tiền bạc, thì người ta cáng can trường thông tuệ.
Điều này, Năm Thợ Hồ biết rất rõ và chắc chắn. Vì thế, công trình có thể kéo dài mười tháng, hai mươi tháng, hoặc lâu hơn nữa cũng không có gì là bất lợi cho nhà thầu. Thỉnh thoảng nhà thầu Năm Thợ Hồ cũng có ái ngại, rằng thì là, nếu những con người giàu có kia thây đổi ý định thì sao? Thì thiệt hai là chuyện phải có rồi.
Đột nhiên Năm Thọ Hồ lại sôi lên cơn cay cú khi nghĩ đến Đạo Sĩ Mùa Thu, một tên dị nhân hợm hĩnh, không biết từ đâu chui ra. Lão còn nhớ kẻ tiện nhân hợm hĩnh kia phán rằng: số 5 là con số thất bại... Không thể nào! Lão lẩm nhẩm trong cổ họng. Không thể nào! Lão thất bại nhiều rồi, triền miên rồi...
Người đẹp Thục Trinh tiến thêm vài bước nữa về phía cái quán sập sệ của Tư Chín, rồi bỗng nhiên nổi cơn cao hứng, nàng nói như reo lên:
- Có cái quán cà phê kìa ông Năm! Ta vào đó đi.
Tất nhiên Năm Thợ Hồ không thể nào từ chối, nhưng lão rất không muốn bước vào đó, kể từ buổi sáng sớm ngày hôm qua.
Năm Thợ Hồ lật đật chạy theo người đẹp - chủ nhân, khi nàng bước vào cửa quán. Rồi không rõ vì lý do gì, Thục Trinh lùi lại một bước, lảo đảo và hét lên một tiếng thất thanh. Tiếng hét kinh sợ của một người đàn bà, nhất là khi người ấy xinh đẹp, đôi khi lại làm thành một nốt nhạc vui tươi đối với cánh đàn ông, nhất là những tay máu gái mà chỉ máu từ xa. Năm Thợ Hồ, bỏ qua cái tuổi ngũ tuần của mình chạy lên cho kịp Thục Trinh và lão cũng chỉ biết đứng há miệng nhìn một khung cảnh như một tấn tuồng trên sân khấu: hoàng tráng, cao trào và xúc động.
Đạo Sĩ Mùa Thu đứng nghiêm như Từ Hải, còn Thục Trinh run run, cảnh giới. Chỉ đến khi có tiếng lật bật của nhà thầu Năm Thợ Hồ, nàng mới lắp bắp:
- Anh...? Có phải anh là...
Không biết nàng hỏi ai, Năm Thợ Hồ chưa kịp nghĩ ngợi ra điều gì rõ ràng, thì tay dị nhân đã ưỡn ngực như một tên lính kiểng:
- Đạo Sĩ Mùa Thu!
- A... Đúng rồi! Thục Trinh reo lên và nhẹ nhõm. Trên Núi Minh Đạm?
Tư Chín nãy giờ vẫn đứng ở tư thế hoá đá: lom khom, một tay cầm cái chai đen ngòm có đựng một thứ nước đen kịt được gọi là cà phê, tay kia cầm cái ly có những hạt đường kính lạo xạo.
Khi Tư nghe thấy người anh Đạo Sĩ của mình nói với người đẹp chủ ngôi biệt thự những câu như thế, Tư lặng người đi và chịu chết cứng người.
- Mời quý cô nương vào ngồi nghỉ chân trong tệ quán của chúng tôi...
Thục Trinh không có ý định rút lui. Cuộc gặp gỡ có Trời mới biết được này, khiến nàng thích thú.
- Mời ông anh - Đạo Sĩ xoè bàn tay đeo mấy cái nhẫn bằng sắt ra chỉ vào chiếc ghế thấp lè tè của nhà hàng Khoai Mỡ, mời nhà thầu.
Thục Trinh loay hoay đang định ngồi xuống một trong mấy cái ghế nhựa, thì bất ngờ Đạo Sĩ hét lên ngân nga:
- Khoan... an!
Ai đã từng đi xem tuồng, xem hát bội, xem cải lương, hẳn biết đây là một màn cao trào. Đạo Sĩ bước những bước chân uyển chuyển của mình vào trong căn buồng tối đen một lúc, lấy ra miếng vài in hoa sặc sỡ, mà Tư Chín biết ngay đấy là cái áo gối của mình. Đạo Sĩ cầm một bên mép vải, bằng mấy động tác điệu bộ, phảy mạnh mặt ghế chiều từ phải qua trái và lại ngược lại, sau rồi nhẹ nhàng phủ lên:
- Mời quý cô nương an toạ!
Thục Trinh mỉm cười thích thú, lấy tay xoa mông quần trắng muốt của mình rồi ngồi xuống nhẹ nhàng theo đúng kiểu ngồi của một quý tộc:
- Dạ em cám ơn anh...!
(còn nữa)